Trong số các nước G7 (nhóm các nước công nghiệp phát triển), Nhật Bản có tuổi thọ trung bình khi sinh cao nhất theo dữ liệu năm 2016 của OECD , đặc biệt là đối với phụ nữ. Đàn ông Nhật Bản có tuổi thọ cao hơn một chút (81,1 tuổi) so với nam giới Canada (80,9 tuổi), trong khi tuổi thọ của phụ nữ Nhật Bản (87,1 tuổi) cao hơn đáng kể (2,4 tuổi) so với phụ nữ Canada (84,7 tuổi). Tuổi thọ khỏe mạnh của người Nhật là 74,8 tuổi, cũng cao hơn ở Canada (73,2 tuổi).
Tuổi thọ của người Nhật cao hơn chủ yếu là do số ca tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ và ung thư ít hơn, đặc biệt là ung thư vú và tuyến tiền liệt. Tỷ lệ tử vong thấp này chủ yếu là do tỷ lệ béo phì thấp, tiêu thụ ít thịt đỏ và tiêu thụ nhiều cá và thực phẩm thực vật như đậu nành và trà. Tại Nhật Bản, tỷ lệ béo phì thấp (4,8% đối với nam và 3,7% đối với nữ). Để so sánh, ở Canada, 24,6% nam giới trưởng thành và 26,2% phụ nữ trưởng thành bị béo phì (BMI ≥ 30) vào năm 2016. Béo phì là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với cả bệnh tim thiếu máu cục bộ và một số loại ung thư.
Tuy nhiên, vào đầu những năm 1960, tuổi thọ của người Nhật thấp nhất so với bất kỳ quốc gia G7 nào, chủ yếu là do tỷ lệ tử vong cao do bệnh mạch máu não và ung thư dạ dày. Việc giảm lượng muối và thức ăn mặn một phần là nguyên nhân làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh mạch máu não và ung thư dạ dày. Người Nhật tiêu thụ trung bình 14,5 g muối/ngày vào năm 1973 và có lẽ còn nhiều hơn thế trước đó. Ngày nay họ ăn ít muối hơn (9,5 g/ngày vào năm 2017), nhưng vẫn là quá nhiều. Người Canada hiện nay tiêu thụ trung bình khoảng 7 g muối/ngày (2,76 g natri/ngày), gần gấp đôi lượng tiêu thụ được Bộ Y tế Canada khuyến nghị.
So với người Canada, người Pháp, người Ý và người Mỹ, người Nhật tiêu thụ ít thịt hơn nhiều (đặc biệt là thịt bò), các sản phẩm từ sữa, đường và chất ngọt, trái cây và khoai tây, nhưng lại ăn nhiều cá và hải sản, gạo, đậu nành và trà hơn (Bảng 1). Năm 2017, người Nhật tiêu thụ trung bình 2.697 kilocalories mỗi ngày theo FAO , ít hơn đáng kể so với Canada (3492 kcal mỗi ngày), Pháp (3558 kcal mỗi ngày), Ý (3522 kcal mỗi ngày) và Hoa Kỳ. (3766 kcal mỗi ngày).
Người Nhật ăn trung bình gần bằng một nửa lượng thịt so với người Canada (ít hơn 46%), nhưng lại ăn nhiều cá và hải sản gấp đôi. Sự khác biệt đáng kể này dẫn đến việc giảm lượng axit béo bão hòa trong chế độ ăn uống, có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ thấp hơn nhưng lại tăng nguy cơ đột quỵ. Ngược lại, chế độ ăn giàu axit béo omega-3 có trong cá và hải sản có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ. Do đó, việc người Nhật tiêu thụ thịt đỏ thấp hơn và tiêu thụ cá và hải sản cao hơn có thể giải thích tỷ lệ tử vong do bệnh tim thiếu máu cục bộ thấp hơn và tỷ lệ tử vong do bệnh mạch máu não cao hơn ở Nhật Bản. Các chuyên gia tin rằng tỷ lệ tử vong do bệnh mạch máu não giảm liên quan đến những thay đổi trong chế độ ăn uống của người Nhật , đặc biệt là tăng tiêu thụ các sản phẩm động vật và sản phẩm từ sữa, và do đó tiêu thụ chất béo bão hòa và canxi (mức tiêu thụ vẫn ở mức vừa phải), kết hợp với việc giảm tiêu thụ muối. Thật vậy, trái ngược với những gì được quan sát ở phương Tây, việc tiêu thụ chất béo bão hòa ở Nhật Bản có liên quan đến việc giảm nguy cơ đột quỵ do xuất huyết và ở mức độ thấp hơn là đột quỵ do thiếu máu cục bộ, theo một phân tích tổng hợp các nghiên cứu tiền cứu . Theo các tác giả của phân tích tổng hợp, nguyên nhân của sự khác biệt này vẫn chưa được biết, nhưng nó có thể là do tính nhạy cảm di truyền hoặc các yếu tố gây nhiễu.
1- Thực phẩm thực vật và cá Ăn
nhiều rau, trái cây, các loại đậu, khoai tây, nấm, rong biển, rau muối, gạo, cá, đường, gia vị làm từ muối và trà.
2- Bánh mì và sữa Ăn
nhiều bánh mì, các sản phẩm từ sữa, trái cây và đường. Ăn ít gạo.
3- Thực phẩm và dầu động vật
Ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến sẵn, trứng, dầu thực vật.
Xu hướng giảm trong nhóm “thực phẩm thực vật và cá” (thực phẩm chủ yếu trong chế độ ăn uống truyền thống của Nhật Bản hay washoku ) được quan sát thấy ở mọi nhóm tuổi. Sự gia tăng nhóm “bánh mì và sữa” được quan sát thấy ở nhóm tuổi 50–64 và ≥65, nhưng không phải ở nhóm trẻ nhất. Đối với nhóm “thực phẩm và dầu động vật”, xu hướng ngày càng tăng được quan sát thấy trong suốt 13 năm nghiên cứu ở tất cả các nhóm tuổi ngoại trừ nhóm trẻ nhất (20–34 tuổi). Người Nhật ngày càng ăn uống giống người phương Tây. Điều này có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và tuổi thọ của họ không? Còn quá sớm để biết, phải vài chục năm nữa mới biết được.
Kể từ những năm 1970, mức cholesterol trung bình của người Nhật vẫn tăng, nhưng bất chấp điều này và tỷ lệ hút thuốc cao ở đất nước này, tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành ở Nhật Bản vẫn thấp hơn đáng kể so với phương Tây. Để hiểu rõ hơn những khác biệt này, một nghiên cứu năm 2003 so sánh các yếu tố rủi ro và chế độ ăn uống của người Nhật sống ở Nhật Bản với người Nhật di cư thế hệ thứ ba và thứ tư sống ở Hawaii ở Hoa Kỳ. Huyết áp của nam giới ở người Nhật cao hơn đáng kể so với người Mỹ gốc Nhật, trong khi không có sự khác biệt đáng kể ở phụ nữ. Ít người Nhật được điều trị bệnh tăng huyết áp hơn ở Hawaii. Nhiều người Nhật (đặc biệt là nam giới) hút thuốc hơn người Mỹ gốc Nhật. Chỉ số khối cơ thể, nồng độ cholesterol LDL trong máu, cholesterol toàn phần, huyết sắc tố glycated (chỉ số cho bệnh tiểu đường) và fibrinogen (dấu hiệu viêm) ở Nhật Bản thấp hơn đáng kể so với ở Hawaii. Cholesterol HDL (cholesterol “tốt”) ở người Nhật cao hơn người Mỹ gốc Nhật. Chế độ ăn uống toàn chất béo và axit béo bão hòa (có hại cho sức khỏe tim mạch) ở Nhật Bản thấp hơn ở Hawaii. Ngược lại, lượng tiêu thụ axit béo không bão hòa đa và axit béo omega-3 (có lợi cho sức khỏe tim mạch tốt) ở Nhật Bản cao hơn ở Hawaii. Những khác biệt này có thể giải thích phần nào tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành ở Nhật Bản thấp hơn so với các nước công nghiệp phát triển phương Tây.
Nói cách khác, ngay cả khi những người di cư này có cùng rủi ro cơ bản như những người đồng hương vẫn ở lại nước xuất xứ (tuổi, giới tính và di truyền), thì việc áp dụng lối sống của nước sở tại cũng đủ làm tăng đáng kể rủi ro của họ. của bệnh tim mạch.
Mặc dù chế độ ăn của người Nhật khác với chế độ ăn của các nước phương Tây nhưng nó lại có những đặc điểm tương tự như chế độ ăn Địa Trung Hải. Tại sao thỉnh thoảng lại không chế biến những món đậu nành thơm ngon của Nhật Bản (ví dụ như đậu phụ, đậu nành Nhật Bản, súp miso), uống trà xanh, ăn ít thịt, đường, tinh bột và nhiều cá hơn? Bữa ăn của bạn không chỉ đa dạng hơn mà còn có thể tận hưởng những lợi ích sức khỏe của chế độ ăn kiêng kiểu Nhật.